Đây là câu chuyện về hai anh em nọ sống bên nhau ở một làng quê nhỏ, cùng nhau chăm chỉ làm ruộng, làm việc bên gia đình. Hai anh em từ trước đến giờ luôn yêu thương và giúp đỡ nhau hết lòng nhưng chỉ vì một hiểu lầm nhỏ mà hai anh em dần xa cách nhau, không nói chuyện. Cả hai bên đều im lặng trong nhiều tuần, ẩn nhẫn sự tức giận trong đó.
Một ngày nọ, có một người thợ mộc già gõ cửa nhà anh trai. Ông nói: "Tôi có thể làm và sửa chữa được nhiều thứ, nhà anh có cần sửa gì không?" Người anh trai ngẫm nghĩ một chút rồi trả lời: "Được, tôi có công việc cho bác đây". Rồi người anh dẫn người thợ mộc già ra sau nhà và chỉ: "Nhà bên cạnh là nhà em tôi, ngày xưa có con lạch nhỏ giữa hai nhà chúng tôi. Gần đây, em tôi đã cố ý trồng thật nhiều cây cao đồng thời đào rộng con lạch ra, biến nó thành ranh giới giữa hai nhà. Bác nhìn thấy rồi đấy, thế nên, bác hãy dựng hẳn một hàng rào cao 3m cho tôi. Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy khuôn mặt của nó nữa."
Cô y tá bước vào phòng bệnh với gương mặt lo âu, hồi hộp, xen lẫn chút mệt mỏi, theo sau là anh thủy thủ điềm đạm với những nét khắc khổ trên khuôn mặt. Hai người lặng lẽ tiến lại gần người đàn ông đang nằm bất động trên giường bệnh. Cô gái thủ thỉ vào tai ông: “Bác kính yêu, con trai bác đã về đến rồi đây!”
Người đàn ông không có phản ứng gì.. Có vẻ những liều thuốc an thần “nặng ký” để giảm những cơn đau tim quằn quại đã khiến ông chìm vào giấc ngủ mê mệt… Cô y tá phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần ông mới nặng nề mở được đôi mắt vốn đã mờ đi vì bệnh tật. Những cơn đau tim dữ dội khiến cơ thể ông không còn một chút sức lực. Ông yếu ớt nhìn người thủy thủ cạnh giường mình, rồi nắm lấy tay anh.
Linh bắt gặp nó rất tình cờ khi một buổi sáng rảnh rỗi ghé chơi gian hàng của người bạn bán chim cảnh. Nó như một miếng thịt bèo nhèo, tai tái. Hai khoé mỏ còn vàng ươm, hai mắt chưa mở, chỉ là hai đốm đen. Cái cổ ngẳng, quẹo một bên, thỉnh thoảng lại cố vươn lên, ngáp ngáp như người khó thở. Hai cái cánh bé xíu, cặp chân cũng nhỏ tí, co quắp lâu lâu lại giật giật như người mắc bệnh kinh phong.
Tôi cầm túi đồ ăn ném mạnh vào giỏ rác, nói như hét: “Đã nói má đừng có lên nữa, sao không chịu nghe vậy? Tiền nè, má về đi”.
Mẹ tôi run rẩy bước tới cạnh thùng rác: “Thôi, con không ăn thì má đem về… Tại má nhớ con quá thì lên thăm chớ má đâu có cần tiền. Mai mốt con về thì hết con nước rồi, má sợ không có cá ngon như vầy nữa…”
Tôi dịu giọng: “Sao má không chịu nhớ? Lâu rồi con đâu có thích ăn cá linh? Cá gì mà xương không…”. Mẹ tôi mở giỏ lấy ra túm bông điên điển: “Vậy má để lại cái này cho con nghen? Nước rút rồi nên bông cũng ít. Hôm qua má phải đi hái cả buổi mới được nhiêu đây”. Tôi thấy chạnh lòng nên gật đầu: “Má cứ để đó cho con. Thôi, má về đi, con phải đi làm đây”.
Bài hát nổi tiếng Dư Âm được biết đến như là ca khúc tiền chiến duy nhất của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Cho đến nay, Dư Âm vẫn được xem là một trong những bài hát tiêu biểu nhất của thời kỳ tân nhạc lãng mạn thập niên 1940.
Năm 1949 nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là trưởng đoàn văn công của Sư đoàn 304 (tương đương tiểu đoàn trưởng) và cũng đang là một chàng trai cô đơn. Người vợ đầu tiên của ông đã mất 6 năm trước và nỗi buồn cũng ít nhiều vơi đi. Thấy vậy bạn bè giới thiệu với ông rất nhiều bạn gái nhưng rồi cũng chẳng tới đâu.
Đột tử thường xảy ra vào đêm khuya hoặc sáng sớm. Khi gặp gió lạnh mùa Đông tràn về, Chúng ta phải thay đổi thói quen sinh hoạt, đừng nghĩ rằng mình còn trẻ mà không phòng bệnh. Mọi người chắc sẽ rất hiếu kỳ muốn biết rằng với những người đang khỏe mạnh, tại sao lại đột nhiên qua đời?
Đặc biệt với những người không có tiền sử bệnh về máu, lại luôn uống thuốc đúng giờ, cũng không hút thuốc, không thức đêm, không uống rượu, trước khi đột tử đều không có hiện tượng bất thường? Trong điều trị lâm sàng thì những vấn đề này thường được đề cập tới thì đúng rõ ràng là đã mặc áo ấm rồi, vậy tại sao vẫn bị đột tử ?
Tôi điều trị những Bệnh nhân này trong phòng chẩn bệnh lý hiểm nghèo, phát hiện ra rằng thực tế thì nguy cơ này xuất phát từ trong những thói quen hàng ngày, chứ không phải là mặc bao nhiêu quần áo ấm.
Sáng nay, tiếng chuông điện thoại của ông gọi bà thức dậy hàng ngày từ tận tiểu bang xa cách bà đến ba tiếng thời gian, đã reo đến năm hồi chuông mà bà Năm dường như cũng chưa muốn mở mắt thì phải. Lý do là hôm qua không hiểu sao bà cứ thao thức hoài mãi đến gần 4:40am mới hơi chợp mắt với những giấc mơ mà bà cho là “Rất ư vớ vẩn” đan xen vào giấc ngủ chập chờn đó của bà, hai con mắt bà Năm cứ muốn díp lại với nhau, đầu bà cũng chưa đủ tỉnh táo để thoát ra khỏi giấc mơ, vừa chợt đến trong giấc ngủ muộn màng đó. Nhiệt độ bên ngoài trời hôm nay dự báo sẽ lạnh khoảng 40F nên bà cũng thấy lười, cho dù thói quen là sáng Chúa Nhật nào cũng phải đến nhà thờ, ngoài việc tuân giữ theo luật định, bà còn muốn tìm ở đó những giây phút thanh thản cho tâm hồn, nhất là những khi có điều gì đó khiến bà hơi chạnh lòng đôi chút. Thật ra, ở cái tuổi này rồi thì cũng nên sống cởi mở và buông bỏ tất cả cho lòng nhẹ nhàng, thế nhưng ai bảo bà là con người chứ, mà lại là con người đa đoan nữa, thế nên rất nhiều lúc bà chạnh lòng rơi lệ chẳng vì đâu.
Tự cổ chí kim, tình yêu luôn là đề tài muôn thưở của con người, cho dẫu sống trong thời đại nào, xã hội nào, giai cấp nào, trí thức hay ít học. Chế độ tư bản hay cộng sản, vô thần thì tình yêu cũng luôn hiện hữu, chỉ khác cách thể hiện . . . Thế nên ta có thể dễ dàng tìm ra trong kho tàng văn chương bình dân Việt Nam rất nhiều câu, thậm chí cả những bài ca dao khá dài diễn tả tình cảm của đôi lứa yêu nhau, từ khi hai người mới biết hay đã thành vợ thành chồng, và cả những nỗi nhớ nhung khi vừa mới “phải lòng” nhau, khiến cho người nhớ nhung đó cũng thấy lạ cho chính mình như: